Quy định về tạo lập di chúc


Người tạo lập di chúc có thể để lại 1 phần gia sản vào việc thờ cúng hoặc để di tặng cho người khác. Phần tài sản sử dụng vào việc di tặng, thờ cúng không được chia thừa kế. Hiệu lực của việc di tặng về nguyên tắc, được khẳng định theo hiệu lực của chúc thư. Nghĩa là việc di tặng chỉ có hiệu lực kể từ thời khắc người lập chúc thư mất và người được di tặng phải còn sống vào thời khắc đó. Người đồng ý nhận tài sản di tặng chẳng phải thực hành phận sự về gia sản do người chết để lại. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho những chủ nợ của người trở về cát bụi, luật pháp cũng quy định: “Trường hợp toàn phần gia sản ko đủ để thanh toán trách nhiệm gia sản của người tạo lập chúc thư thì phần di tặng cũng được dùng để tiến hành phần trách nhiệm còn lại của người này” (khoản 2 Điều 671 BLDS) và “Trong hoàn cảnh toàn phần gia sản của người mất ko đủ để trả tiền phận sự di sản của người đó thì ko được dành một phần di sản sử dụng vào việc thờ cúng””(khoản hai Điều 670 BLDS).


Luật quy định người để lại tài sản thừa kế có quyền dành một phần tài sản của mình để di tặng là hoàn toàn tương xứng. Theo như quy định về di tặng thì, người được di tặng có phổ biến ưu tiên hơn người được thừa kế thường ngày vì lúc thực hiện nghĩa vụ về gia sản, thì người được di tặng chỉ phải tiến hành nghĩa vụ khi tất cả gia sản của người lập di chúc không đủ để trả tiền các khoản nợ của họ. Tuy vậy, khi khắc phục các tranh dành can thiệp tới tâm điểm này, còn còn đó rộng rãi vướng mắc, cụ thể: Xét về bản chất, người được di tặng là người thừa hưởng 1 phần di sản theo chúc thư. 

 Quy định về tạo lập di chúc
 Quy định về tạo lập di chúc

Chủ đề để lại gia sản sử dụng vào việc thờ cúng cũng gặp vướng mắc tương tự. Tài sản này cũng được hưởng ưu tiên khi thực hiện nghĩa vụ và ko bị đem ra chia thừa kế. Ngoài ra, luật không nguyên tắc rõ phần tài sản sử dụng vào việc thờ cúng của người để lại tài sản tối đa là bao lăm. Vậy nên, bối cảnh người tạo lập chúc thư định đoạt gia sản sử dụng vào việc thờ cúng quá lớn sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi của những người thừa kế. Trong thời gian tới, luật pháp dân sự cần nguyên tắc cụ thể về phần gia sản được sử dụng vào việc thờ cúng và di tặng để ngăn chặn các vướng mắc nêu trên.

Sửa đổi di chúc: là việc người tạo chúc thư bằng ý chí tự nguyện của mình gây ra đổi thay 1 phần chúc thư đã tạo. Những phần chúc thư ko bị sửa đổi vẫn có hiệu lực; phần di chúc đã bị sửa đổi sẽ ko còn hiệu lực mà thay vào đó, luật pháp sẽ căn cứ vào ý chí biểu hiện trong sự sửa đổi tiếp tục cùng.

Bổ sung di chúc: là việc người tạo lập di chúc bổ sung thêm 1 số trọng tâm mà trong di chúc đã lập chưa nói đến nhằm gây ra di chúc cụ thể, chi tiết hơn, rõ hơn. Khi người lập chúc thư bổ sung di chúc thì cả chúc thư đã tạo lập và cả phần bổ sung đều có hiệu lực như nhau. Hoàn cảnh di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật. BLDS ko nguyên tắc cơ hội về hình thức của việc sửa đổi, bổ sung di chúc. Ngoài ra, để tránh việc tẩy xóa, thêm bớt vào di chúc mang lại giảm tính chính xác và xác thực của chúc thư luật cần quy định việc sửa đổi bổ sung di chúc phải được biểu hiện bằng văn bản riêng biệt hẳn nhiên chúc thư đã tạo.

Thay thế di chúc: Thay thế di chúc là việc 1 người tuy đã lập di chúc định đoạt di sản của mình cho người khác nhưng sau nếu họ thấy việc định đoạt của mình chưa thích hợp (hoặc không còn phù hợp) thì có quyền tạo lập một chúc thư khác để thay chúc thư đã tạo trước. Khoản 3 Điều 662 BLDS quy định: “Trong tình huống người tạo chúc thư thay thế di chúc bằng di chúc mới thì chúc thư trước bị hủy bỏ”.

Hủy bỏ di chúc: là người đã tạo chúc thư lại bằng ý chí tự nguyện của mình truất bãi chúc thư đã tạo. Khoản 3 Điểu 662 BLDS 2005 thẩm định một tình thế được coi là hủy bỏ di chúc: khi người tạo chúc thư thay thế di chúc đã tạo lập. Bên cạnh đó, thực tại việc hủy bỏ chúc thư còn có năng lực được người tạo lập di chúc thực hành bằng rộng rãi phương pháp khác nhau, ví dụ: hủy bỏ chúc thư trong bối cảnh thực hành hành vi xé, đốt, tiêu hủy chúc thư mà người đó đã lập ra; hoặc lúc người tạo di chúc tuyên thầy trước mọi người về việc phế truất chúc thư đã tạo hay viết vào bản di chúc là không thừa nhận chúc thư đó nữa. BLDS ko quy định về hình thức hủy bỏ chúc thư, tuy nhiên, theo như phổ thông ý kiến, dù thực hành bằng phương pháp nào chăng nữa, nhưng nếu đó là ý chí tự nguyện của người lập di chúc thì đều được coi là hủy bỏ chúc thư.


Để tránh việc thất lạc, hư hỏng di chúc, cũng như để đảm bảo ý nguyện của mình ko bị người khác xâm phạm, người tạo chúc thư có khả năng gửi di chúc ở cơ quan công chứng nhà nước hoặc bất kỳ ai mà mình ủng hộ giữ bản chúc thư. Cùng lúc, để gia sản của người tạo di chúc để lại không bị trở về cát bụi mát, hư hỏng cần có người điều hành di sản. Tôn trọng ý chí của người tạo lập chúc thư nên đầu tiên người quản lý di sản phải là người được xác định trong chúc thư, khi nào trong di chúc không thẩm định người điều hành di sản thì sẽ đánh giá người điều hành di sản dựa theo 1 trong các hoàn cảnh sau:

- Là người được những người thừa kế cùng thỏa thuận cử ra để quản lý tài sản trong thời kì gia sản chưa được chia.

- Người đang chiếm giữ, quản lý gia sản là người quản lý di sản trong thời kì những người thừa kế chưa cử được người điều hành tài sản mới.

- Người đang chiếm giữ, dùng tài sản thừa kế dựa trên bản thỏa thuận mà họ đã ký kết với người để lại tài sản là người quản lý di sản cho tới khi hết hạn hợp đồng.

- Tài sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý khi chưa giám định được người thừa kế và tài sản chưa có người điều hành.

Người được chỉ định điều hành gia sản trong di chúc có năng lực là một trong các người thừa kế dựa theo pháp luật của người đó nhưng cũng có thể là một người bất kỳ hoặc 1 cơ quan hay đơn vị nào đó. Ý chí này của người lập di chúc luôn luôn được pháp luật chứng nhận và bảo đảm tiến hành, nếu đúng là ý chí tự nguyện và không trái với luật pháp.

Người lập chúc thư cũng có quyền xác định người phân chia tài sản, việc phân chia di sản phải tuân căn cứ chúc thư. Tình huống chúc thư không thẩm định giải pháp phân chia tài sản thì phải chia dựa theo sự thỏa thuận của những người thừa kế. Người phân chia tài sản chỉ thừa hưởng thù lao đối với công tác chia gia sản và dựa trên mức mà người để lại di sản đã giám định, nếu trong chúc thư có cho phép hưởng thù lao. Tình huống di chúc không giám định điều này, nhưng nếu có sự thỏa thuận của những người thừa kế thì người phân chia tài sản vẫn được lợi thù lao theo sự thỏa thuận đó. Cùng lúc, người được xác định phân chia gia sản có năng lực không muốn sở hữu công việc đó nếu muốn và trong những hoàn cảnh này những người thừa kế tự thỏa thuận để cử ra người phân chia tài sản.

Tóm lại, quyền quyết định của người tạo di chúc được luật pháp bảo kê và tôn trọng nhưng chỉ có hiện lực khi việc quyết định bằng di chúc thỏa mãn các cơ hội về di chúc đúng luật được quy định tại Điều 652 BLDS. Nếu người tạo di chúc không tuân dựa trên các điều kiện của di chúc hợp pháp thì chúc thư đó bị đánh giá là không hợp pháp và dù gì đi nữa ý chí của người có tài sản được luật bảo hộ và tôn trọng nhưng quyền quyết định của người có tài sản chẳng phải là tuyệt đối. Quyền quyết định tài sản của người tạo lập di chúc ko vượt ra ngoài khuôn khổ của luật pháp thừa kế. Quyền tự do ý chí ấy được thể hiện ko những trong việc tạo lập chúc thư để định đoạt tài sản mà còn biểu lộ ngay cả trong việc không tạo lập chúc thư để định đoạt gia sản để lại sau đó khi chết. Đây là giải pháp mô tả ý chí của tư nhân bằng việc ko lập di chúc để định đoạt tài sản của họ mà ý chí đó diễn đạt ở việc chỉ để tài sản cho những người có quyền thừa kế dựa trên luật.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tranh chấp di sản thừa kế vi không có di chúc

Sang tên quyền sử dụng đất được thừa kế

Cách đòi lại quyền hưởng tài sản thừa kế